Nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ được biết đến trong văn học mà còn lan toả trong đời sống xã hội hiện nay, đây là một nhân vật mang lại nhiều đề tài và được khai thác trong cuộc sống hiện đại. Nhà văn Tô Hoài đã rất thành công với việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị nhưng chắc chắc tác giả không thể tưởng tượng được sức lan toả mạnh mẽ đến vậy.
Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức, môn ngữ văn lớp 12 đã ra đề bài: phân tích về nhân vật Mị để các em học sinh có thể tìm hiểu kỹ hơn, khám phá sâu hơn về người phụ nữ xưa cũng như nâng cao khả năng viết văn phân tích nhân vật. Nếu các bạn đang băn khoăn chưa biết phải làm thế nào thì hãy tham khảo những bài văn hay dưới đây, phân tích chuyên sâu và đầy đủ nhất.
Nội dung
Bài văn phân tích nhân vật mị số 1
Tô Hoài là nhà văn Hà Nội, sinh năm 1920, tự học mà thành tài. Khi bước vào tuổi “xưa nay hiếm”, ông đã có trên 100 tác phẩm. Trang văn xuôi của ông giàu chất thơ, viết hay về phong tục sinh hoạt, có tài tả cảnh với lối kể chuyện sinh động, hóm hỉnh, đậm đà. Ông viết thành công về truyện thiếu nhi, về đề tài miền núi. “Dế Mèn phiêu lưu kí”, “Truyện Tây Bắc”, “Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ”, “Miền Tây”, v.v… là những tác phẩm đặc sắc của ông được bạn đọc gần xa yêu thích.
Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, một chuyến đi dài hơn nửa năm. Ông đã viết truyện “Vợ chồng A Phủ”, qua đó nói lên sự thống khổ của người Mèo ở Tây Bắc và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến.
Truyện gồm có 2 phần: 1, Mị và A Phủ ở Hồng Ngài; 2, Mị và A Phủ ở khu du kích Phiềng Sa. Phần thứ nhất là cảm động nhất, khi tác giả nói về bi kịch và sự vùng dậy của nhân vật Mị. Cuộc đời của Mị đầy nước mắt. Khi Mị biết cuốc nương, thì mẹ Mị mất đã lâu rồi, bố Mị đã già. Món nợ truyền kiếp đang đè nặng lên tâm hồn Mị. Năm nào hai bố con Mị cũng phải trả nợ lãi một nương ngô cho thống lí Pá Tra.
Mị làm nương giỏi, thổi sáo hay, nhiều chàng trai mê, ngày đèm thổi sáo đi theo Mị. Hạnh phúc, tình yêu và tuổi xuân của Mị đã bị chà đạp. Mị đã bị thằng A Sử, con trai Pá Tra bắt cóc đem về “cúng trình ma”. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Bố Mị chỉ còn biết khóc và cất lời than: “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!”.
Mị là con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra từ cái Tết ấy… Bố Mị đã già, đã khổ lại càng cô đơn khi Mị trở thành con trâu, con ngựa nhà thống lí. Như một nụ hoa xuân chưa kịp nở đã bị héo tàn, Mị đau khổ quá chừng “Mặt buồn rười rượi”. Nơi Mị ở là một cái buồng “kín mít” chỉ có một ô cửa sổ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng! Mị phải làm quần quật suốt đêm ngày, lúc hái củi, lúc bung ngô, lúc đi nương, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.
Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế! Đau khổ quá, Mị như kẻ vô cảm vô hồn, ngày “càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bao mùa xuân đã trôi qua, Mị tưởng mình cũng như con trâu con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Như một linh hồn chết “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa”. Hình ảnh Mị cuối mặt quay sợi đây bên tảng đá, đầy ám ảnh, gợi lên trong lòng ta nhiều thương xót mênh mông về một kiếp người oan khổ – con dâu gạt nợ!
Mị là một người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Hàng tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. Mị không muốn làm kiếp con dâu gạt nợ. Mị phải ăn lá ngón để tự tử. Mị trốn về nhà, quỳ lạy bố “úp mặt xuống đất, nức nở”. Mị chết nhưng nợ quan vẫn còn, bố đã già, đã ốm yếu qua rồi, lấy ai làm nương ngô giả được nợ?
Mị không nỡ chết! Mị không thể chết! Thương bố đã già yếu. Mị chết thì bố Mị “còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa”. Quẳng nắm lá ngón xuống đất, Mị nghe bố nói, bưng mặt khóc, Mị đành trở lại nhà thống lí, cam chịu mọi cay cực, đau khổ. Thương cha mà Mị nhận hết mọi đau khổ vào mình. Lòng hiếu thảo, đức hi sinh của người con gái vùng rẻo cao thật là đẹp, đáng quý trọng.
Cứ tưởng rằng “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Nhưng Mị còn trẻ. Tết lại đến, ngoài đầu núi đã có ai đó “thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Nghe tiếng sáo vọng lại, Mị “thiết tha bồi hồi”. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo:
“… Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Mị “nổi loạn” lén lấy hũ rượu “cứ uống ừng ực từng bát”. Mị say, ngồi lịm mặt… Mị nhớ lại thời con gái. Mị thấy lòng mình “phơi phới trở lại”, rồi đột nhiên “vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình của trai gái làng Mèo đã “đánh thức” bao nỗi khát khao về tình yêu và hạnh phúc của người phụ nữ bất hạnh này! Mị ý thức mãnh liệt: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”.
Có biết bao người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Mị cay đắng nghĩ đến thân phận mình: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Nước mắt Mị ứa ra. Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay! Tiếng sáo gọi bạn yêu lại làm cho lòng Mị bồi hồi:
“Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi”.
Mị xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa… Những hành động ấy diễn ra ngay trước mắt thằng A Sử. Mị phải trả giá đau đớn. Thằng A Sử đã trói đứng Mị suốt đêm trong buồng bằng một thúng sợi đay. Hắn còn quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mi “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Suốt đêm, Mị “lúc mê, lúc tỉnh”. Mị sợ quá, cựa quậy “xem mình còn sống hay chết”.
Có lúc Mị “vùng bước đi” chập chờn theo tiếng sáo, nhưng chân tay đang bị trói “đau không cựa được”, “đau nhức”, “đau dứt từng mảnh thịt”. Nghe tiếng ngựa nhai cỏ, gãi chân, Mị đau khổ thổn thức “nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Tô Hoài miêu tả tâm trạng, phân tích tâm lí của Mị một cách sâu sắc tinh tế qua tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Mị khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc biết bao! Mị có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Ông đã vạch trần bộ mặt ghê tởm của thằng A Sử và chỉ rõ: việc bắt Mị làm con dâu gạt nợ là một tệ nạn xã hội vô cùng dã man. Hành động “nổi loạn” của Mị đã cho thấy không có uy quyền nào có thể làm lụi tàn được, vùi dập được nỗi khát khao trong người phụ nữ trẻ, người con dâu gạt nợ.
Nhờ một chuyện tình cờ mà Mị được sống sót, không bị chết rũ xương trong buồng như người đàn bà nọ. Mị mỗi ngày một tê dại hẳn đi. Đêm mùa đông ở vùng núi Hồng Ngài dài và lạnh. Mị buồn chỉ chợp mắt được từng lúc, rồi lại thức sưởi ấm suốt đêm. Mị sống trong tâm trạng cô đơn “chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Mị và A Phủ như hai số kiếp tiền định cùng trải qua bao đau khổ dập vùi.
A Phủ, một kẻ tứ cố vô thân, vì tội đánh con quan mà bị đánh trói, bị làng bắt phạt vạ 100 đồng bạc trắng, trở thành người vay nợ, kẻ ở nợ, phải làm con trâu con ngựa cho nhà thống lí , “đời mày, đời con, đời cháu” của A Phủ cũng phải thế! Hoạ vô đơn chí! Rừng động, A Phủ đi chăn bò, để hổ kéo về bắt mất một con.
Thống lí Pá Tra mắng chửi A Phủ là “quân ăn cướp làm mất bỏ tao”! Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc bằng một cuộn dây mây đến chết nếu không bắt được hổ về! Bị trói đứng suốt mấy ngày đêm, hai hõm má của A Phủ đã “xám đen lại”. Nửa đem, qua ánh lửa, Mị “lé mắt trông sang” thấy kẻ chịu nạn, rồi xúc động nghĩ: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là ngườ kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
Rồi Mị thương thân phận mình, thương người đàn bà ngày trước bị trói đến chết ở nhà này! Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí: Chúng nó thật độc ác!”. Mị vừa lo vừa sợ phải thế mạng vào cái cọc ấy một khi A Phủ trốn thoát. Nghĩ thế, trong tình cảnh này “làm sao Mị cũng không thấy sợ…”. Bếp lửa tàn, nhà tối bưng, Mị như có thêm sức mạnh. Mị đã dùng dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ.
Một cảnh dữ dội, khủng khiếp diễn ra. Như ra lệnh, Mị giục A Phủ: “Đi ngay!”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy! Mị đứng lặng trong bóng tối, Mị băng đi nói thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: “A Phủ cho tôi đi!… ở đây thì chết mất!”. A Phủ chỉ kịp nói với người đàn bà chê chồng vừa cắt dây trói cứu mình: “Đi với tôi!”. Mị và A Phủ dìu đỡ nhau chạy trốn khỏi Hồng Ngài “cái đêm hôm ấy, đêm gì?”. Đó là cái đêm hãi hùng mà rất đáng nhớ đối với Mị và A Phủ.
Hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn là một tình huống dữ dội phản ánh bước nhảy vọt về ý thức và tâm lí của nhân vật Mị. Mị vừa thương mình, vừa thương người, Mị căm thù cái ác đã chà đạp lên cuộc đời mình. Mị cắt dây trói cứu A Phủ cũng là cắt đứt sợi dây oan nghiệt đã biến con người thành nô lệ súc vật nhục nhã, đau thương. Mị đã giành được tự do và hạnh phúc. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng. Mị có một sức sống tiềm tàng kì lạ!
Nhân vật Mị trong truyện “Vợ chồng A Phủ” là một thành công của Tô Hoài. Mị là một cô gái duyên dáng, hiếu thảo giàu tình thương và có một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Tính cách Mị dược miêu tả trong quá trình phát triển theo quy luật cuộc sống. Mị chỉ biết khóc, Mị ăn lá ngón… Mị lầm lũi…
Mị khao khát hạnh phúc, tình yêu. Tâm hồn Mị được hồi sinh, được đánh thức cùng mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân. Mị bị trói, bị vùi dập. Mị đã vùng lên cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng chạy trốn. Đó là trang đời đầy máu và nước mắt của Mị, là bi kịch và sự vùng dậy của người con gái trong thân phận con dâu gạt nợ ở vùng reo cao ngày xưa. Cuộc đời của Mị đã từ đau thương, nô lệ trở thành con người hạnh phúc, tự do.
Sự đổi đời của Mị đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện “Vợ chồng A Phủ”. Từ tủi nhục cay đắng của kiếp con dâu gạt nợ, Mị đã vùng dậy giành được tự do, hạnh phúc. Cái hương vị cuộc đời ấy thật đáng quý và sáng giá biết bao! Tô Hoài đã dành cho nhân vật Mị sự cảm thương sâu sắc đầy tình người.
Bài văn phân tích nhân vật mị số 2
Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết gần gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có sức ám ảnh đối với người đọc.
Tô Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng nhưng đầy ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài đã rất khéo léo khi gợi tả hình ảnh của Mị qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó. Một sự đối lập đến đau lòng giữa căn nhà rộng lớn của thống lý và sự lầm lũi, côi cút của người con gái bí hiểm đó.
Một cô gái chịu sự dày vò về tinh thần, nhưng dường như lại có sức mạnh, nghị lực phi thường đang được nhen nhóm trong lòng của Mị.Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng cuộc sống của Mị sẽ sung sướng, hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mị với nhà thống Lý đã khiến cho cuộc đời cô rơi vào bế tắc và tuyệt vọng như bây giờ. Thương cha, thương cho thân phận hẩm hiu của mình mà Mị đành lặng lẽ về làm dâu nhà thống Lý trong tủi nhục và đau khổ.
Tô Hoài đã diễn tả cuộc sống như chết rồi của Mị tại nhà thống Lý, một cuộc sống cơ cực, không khác gì thân trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mị lại bị đối xử không khác gì nô lệ, thậm chí thân trâu ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở nhà này vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm”. Bị đày đọa về thể xác và tinh thần khiến cho Mị ngày càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyệt vọng.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng trạng thái lầm lũi, một kẻ sống lặng câm y hệt “một con rùa trong xó cửa, căn phòng chỉ có một lỗ sáng to bằng bàn tay”. Căn phòng đó giống như địa ngục trần gian, giam giữ cuộc đời Mị, khiến cho cuộc đời một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chôn vùi nơi đây. Thống lý Pá Tra là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hà khắc, hủ tục, đẩy con người vào bước đường cùng không thương tiếc. Những người nông dân thấp cổ bé họng không biết kêu than ai, chỉ biết chấp nhận và chịu đựng.
Đã có lúc Mị muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình nhưng nghĩ đến cảnh người cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực. Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mị dường như đã không còn. Mị chấp nhận sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết. Bên trong Mị vẫn còn tiềm ẩn sức sống rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng nổ.
Tô Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài khiến cho chính người đọc cũng cảm thấy thích thú. Nó dường như là đòn bẩy để khơi gợi lên niềm tin và nghị lực trong cuộc sống. Mị đã lén uống rượu, trong cơn say, Mị đã ý thức được bản thân mình muốn gì “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày tết vẫn đi chơi. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn ở với nhau”. Lúc ấy Mị đã ý thức được những khát khao trong lòng mình cháy bỏng như thế nào và tiếng sáo ngoài kia là một trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm đẹp một thời Mị từng có.
Nhưng chính hành động này của Mị đã khiến cho A Sử biết được, hắn trói Mị vào cột và bỏ đó đi chơi. Mị vẫn đang lâng lâng trong hơi men rượu, và ký ức của cô lại ùa về dữ dội. Tuy nhiên thực tại đã kéo Mị lại với những gì mà Mị đang đối mặt: đau đớn và tủi nhục, khắp mình mẩy đau nhức.
Tuy nhiên có thể nói cảnh tượng Mị cởi trói cho A Phủ mới là cảnh tượng khắc họa cực kỳ sắc nét và chân thực tâm trạng, khát khao của Mị. Mị đã vùng lên đấu tranh, vùng lên đòi hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ đêm hôm ấy đã đánh thức tình cảm, sự bùng cháy trong trái tim của Mị: “Đêm ấy A Phủ khóc, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã sạm đen”. Giọt nước mắt ấy đã khiến thay đổi cuộc đời Mị về sau.
Chi tiết Mị cởi trói cho A phủ và quyết định chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ về tinh thần. Sự đè nén bấy lâu nay trong lòng Mị đã được bứt phá và giải tỏa ra. Mị đã có thể tự lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mị tự đấu tranh, Mị không thể mãi chịu cảnh bị người ta hành hạ, đè nén. Đây chính là sự bứt phá trong con người của Mị. Đây cũng chính là sự thành công của Tô Hoài khi khắc họa hình tượng nhân vật này.
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt hình tượng nhân vật Mị để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.
Bài văn phân tích nhân vật mị số 3
“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài, được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả cuộc thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về cuộc đời khốn khó trăm chiều của người dân vùng cao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc “Vợ chồng Ả Phủ”, ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ – một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và, đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thông lí Pá Tra.
Có thể nói, toàn bộ đoạn trích trong sách “Văn 12” là tất cả những chuỗi ngày cực nhọc mà Mị phải trải qua (kể từ khi cô bước chân vào nhà thông lí Pá Tra, đến khi cô cùng A Phủ trốn thoát. Với một dung lượng truyện ngắn vừa phải, Tô Hoài đã thể hiện rất nghệ thuật, chân thật quá trình chuyển biến của Mị, từ lúc cam chịu thân phận nô lệ của mình, tới khi thức tỉnh, tự giải thoát cởi trói cho A Phủ.
Câu chuyện về Mị, được bắt đầu từ một hình ảnh rất giàu sức gợi: “Ai ở xa về có việc vào nhà thông lí Pa Tra, thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, chỉ với hai câu văn giản dị ấy thôi, bản chất sự vật đã hiện lên khá rõ nét.
Câu văn cũng như dài thêm ra để độc giả lĩnh hội một cách thấu đáo. Vị trí, xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. Gòn hình ảnh nào đắt hơn chi tiết đó? Con người ngang hàng với những vật vô tri, thân phận trâu ngựa, thậm chí còn như gắn liền với chúng.
Mị vốn là một cô gái con nhà nghèo – “nghèo từ trong trứng”; cô trẻ đẹp, giàu lòng yêu đời, ham sống và có tài thổi sáo; Mị còn là một cô gái chăm làm, một đứa con hiếu thảo… Nhưng, một thứ nợ “gia truyền” của người nghèo, cô đã phải “đi tù khổ sai” trong nhà thống lí Pá Tra, dưới hình thức làm dâu gạt nợ. Biết bao thân phận người dân miền núi, đã bị trả giá bằng cả đời người như thế, bởi hình thức cho vay nặng lãi.
Thời gian đầu, khi mới ở “nhà tù Pá Tra”, Mị đau đớn, uất ức, phản kháng quyết liệt. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô không thể chấp nhận làm thân phận nô lệ cho nhà giàu. Nhưng, tất cả đã thành định mệnh. Nàng Kiều của Nguyễn Du trước khi dấn thân vào cuộc đời ô nhục, cũng hơn một lần nghĩ đến quyên sinh mà cũng không thoát khỏi kiếp đọa đày 15 năm. Ở đây, Mị còn khổ hơn, bởi món nợ vẫn còn đấy, đổ lên đầu bố già.
Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhục nhất đổ lên đầu Mị. Mấy năm sau khi bố già qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa (…) chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Đời Mị chỉ là công việc nối tiếp nhau, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa đi bẻ bắp… thêm vào sự đọa đày thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần mê tín, thần quyền đã hỗ trợ rất đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần” như lời Mác nói.
Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” thật không ở đâu, mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tự coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”.
Khi một “nạn nhân” đau khổ, còn hướng tới cái chết để tìm sự giải thoát, thì phải chăng, trong họ vẫn còn chút gì đó gọi là phản kháng? Mị cũng có lần như thế, nhưng nó bị triệt tiêu và cô đã dường như phó mặc thân phận mình cho định mệnh, không còn ý thức về thời gian. Với Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối, năm tháng qua đi cũng không còn ý nghĩa, không gợi cho cô cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ là một màn sương mờ đục, không hiện tại, quá khứ và tương lai.
Nhưng, đó chỉ là một phần trong con người của Mị. Sức mạnh của ngòi bút nhân đạo Tô Hoài không chỉ dừng lại ở tình cảm xót thương Mị, ở sự tố cáo tính tàn bạo của giai cấp thống trị, mà cò lì ở chỗ nhìn ra con người bên trong của nhân vật. Ông đã tìm sâu vào tận cùng ý thức và trong đáy sâu của tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng, hơi ấm của niềm ham sống, khát khao hạnh phúc, như lớp tro dày nguội lạnh vẫn còn ủ chút than hồng, lớp than ấy chỉ cần một ngọn gió thoảng qua là bùng lên. Tô Hoài dã góp thêm vào truyền thông nhân đạo trong nền văn học dân tộc một tiếng nói có quyền năng và sức tái tạo riêng.
Như đã nói ở phần đầu, Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, một khát khao làm chủ cuộc sống tính cách ấy, phẩm chất ấy không bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị đè nén xuống. Và ngọn gió để thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị, là hoàn cảnh điển hình: mùa xuân về trên vùng cao: “Hồng Ngài năm ấy, ăn tết vào lúc gió thổi cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”. Dẫu trong thời tiết khắc nghiệt, xuân về cũng đem đến cho người dân vùng cao một niềm vui sống được mùa.
Sức sống của tạo vật và con người như bừng tỉnh: “trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra treo trên các mỏm dài xòe ra như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng, lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm rồi sang màu tím man mát. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà…”.
Hoàn cảnh ấy, không thể không tác động vào tâm hồn Mị. Trong các yếu tố “ngoại lực” của mùa xuân, phải kể đến tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo gọi bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi…”. Như vậy, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của tình yêu, của khát vọng ham sống. Trong không khí ấy, Mị lại được kích động bởi men rượu: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước một sự nổi loạn mà chính Mị cũng chưa ý thức rõ: “Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng (…), còn Mị thì đang sống về ngày trước”.
Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phi thời gian” lâu nay của mình. Tiếp đó, lòng ham sống trong cô trỗi dậy mãnh liệt: “MỊ thấy phơi phới trở lại”. Phản ứng đầu tiên đên trong tâm trí Mị là một ý nghĩ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không thèm nhớ lại nữa…”. Ý nghĩ về cái chết lúc này, là sự phản kháng quyết liệt với hoàn cảnh.
Trong khi ấy tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ Mị. Nó là biểu tượng của sự sống mà bấy lâu nay Mị đã quên, giờ đang trở lại. Tiêng sáo theo sát diễn biến tâm trang nhân vật. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài (lơ lửng bay ngoài đường), đã trở thành sự hiện hữu của đời sống bên trong (rập rờn trong đầu).
Từ những chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa. “Mị đến góc nhà, lấy ống mở, xắn một miếng bỏ vào đèn cho thêm sáng”. Hành động này có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ. Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt, cũng là lúc nó bị vùi dập một cách tàn bạo.
A Sử bước vào, thản nhiên xách ra một thúng sợi đay, trói đứng Mị vào cột nhà. Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn còn nhừ sống trong tâm trạng mê say với tiêng sáo ngó kia. Mị như quên mình đang bị trói, Quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút khao cuộc sông mãnh liệt, Mị đã “vùng bước đi”.
Nhưng, thực tế phũ phàng là những vòng dây trói đang thít chặt, dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan.
“Mị không nghe tiếng sáo nữa chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách (…). Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa – thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không thể tự giải thoát cho mình; đồng thời nó cũng hứa hẹn những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.
Sau đêm xuân bị trói đứng, tình cảnh u mê của Mị có phần trầm trọng hơn. Trước cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn; cô vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. A Phủ có là cái xác chết đứng đấy, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi cho Mị một điều gì. Nhưng như đã nói ở đoạn trên, khát vọng đi theo tiếng gọi tự do hãy còn đó trong hồn Mị. Không phải ngẫu nhiên, hình ảnh ngọn lửa được tác giả lặp đi lặp lại nhiều lần trong một đoạn văn ngắn.
Đấy là đoạn vằn miếu tả tâm lí nhân vật khá sâu sắc, tinh tế. Nhưng, cái gì đã khiến Mị trở lại với con người thật của mình? Một lần trở dậy, khi “ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị hé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chao ôi nước mắt! Cái giọt đau, giọt khổ ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại” việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy như thế mà không lau được; Mị lại nhớ tới người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ chỉ đêm nay là chết thôi.
Tết năm trước đã thế, lần này trí nhớ của Mị lại lóe lên một cách vô thức. Và như một phản ứng dây chuyền nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. Cô đã đứng lên trong một ý thức chấp nhận sự hi sinh về mình: lấy con dao nhỏ cắt dây cho A Phủ. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị trang văn.
Hành động của Mị, tuy không thể đoán trước, nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật. Bởi, Mị từng nguyện làm rẫy, chịu khổ để trả nợ cho bố, đã toan chết để tìm sự giải thoát thì lẽ nào lại không dám chết để cứu một con người vô tội?
Nhưng, tính cách. Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng chạy theo. Một kết cấu thật chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình? Và “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi”. Thực chất, quá trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức: nhận thức thực tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng.
Mị cứu A Phủ, bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội, và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình” cho nên, có thể nói, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cũng là Mị đã tự cắt dây trói buộc cô với nhà thống lí Pá Tra. Điều đó, hoàn toàn đúng với lí luận cũng như thực tiễn thời đại. Dòng đầu tiên của Tuyên ngôn Đảng cộng sản, F. Ang ghen từng khẳng định: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp. Áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị càng nặng nề, sự vùng lên đấu tranh càng: mạnh mẽ.”
Tuy nhiên, cách kết thúc của tác phẩm, chúng ta có thể thấy được, bởi Tô Hoài sáng tác thiên truyện này sau Cách mạng tháng Tám. Trước đó không lâu, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng… đã không thể tìm được một con đường tốt đẹp cho nhân vật của mình. Còn Mị, và nhiều nhân vật khác trong các tác phẩm văn học Cách mạng, đã tìm ra con đường giải phóng thật sự, biết cách “cởi trói” cho mình trong quá trình đến với Cách mạng.
Tô Hoài đã có được một tác phẩm thật ý nghĩa, góp phần vào viện bảo tàng con người Việt Nam tiến lên dưới lá cờ vẻ vang của Đảng. Mị là nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi Cách mạng đương đại Việt Nam. Điều này chỉ có thể đạt được khi tác phẩm “chín” về nghệ thuật và đứng trên tầm cao tư tưởng.
Gần nửa thế kỷ đã qua, Vợ chồng A Phủ vẫn đứng vững trước thử thách của thời gian và công luận; nó như chứng minh sức sống bất diệt của nghệ thuật. Và tôi muốn lấy câu nói của Sê-đư-rin để kết thúc bài văn này: “Văn học nghệ thuật luôn đứng ngoài những quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”.
Bài văn phân tích nhân vật mị số 4
Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì sau năm 1945, tập “Truyện Tây Bắc” đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới.
Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.
Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.
Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ.
Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.
Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình.
Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị.
Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.
Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”.
Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị “quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.
Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị.
Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc hoạ tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.
Tóm tắt tác phẩm văn xuôi là một trong số những kĩ năng quan trọng và cơ bản khi bạn tiếp cận với văn bản, vậy với yêu cầu Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, bạn đã chọn những chi tiết truyện tiêu biểu nào để giúp bài tóm tắt của mình đầy đủ, hàm súc và chặt chẽ, giúp người khác có thể hiểu khái quát nhất nội dung mà không cần phải đọc cả tác phẩm?
Bài văn phân tích nhân vật mị số 5
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể.
Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả:
“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.
Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương. Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh hò hẹn của người yêu. Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí.
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.
Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô.
Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống. Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ.
Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.
Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.
Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ.
Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ.
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi”.
Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được.
Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí.
Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”.
Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt :“Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ.
Thông qua phân tích nhân vật Mị, Ta thấy Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.
Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ.
Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Nhà văn Tô Hoài đã phân tích nhân vật Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.
Vợ chồng A Phủ qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời qua phân tích nhân vật Mị nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động.
Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ .
Bài văn phân tích nhân vật mị số 6
Như con ong hút ngàn vạn nhụy hoa mới tạo thành mật ngọt,con trai chịu bao đau đớn xót lòng vì hạt bụi bặm biển khơi mới làm nên viên ngọc trai “tròn trặn ánh ngời”, hành trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ cũng đầy gian nan và cực trải như thế. Lăn lộn giữa cuộc đời suốt mấy mươi năm, bước chân Tô Hoài từng đi qua bao ngóc ngách thế gian, trái tim Tô Hoài từng rung cảm trước bao cảnh đời, và Tây Bắc chính là một trong những nơi khiến người nghệ sĩ ấy phải dừng chân, lưu tâm và chấp bút.
Khi rời khỏi Tây Bắc, Tô Hoài từng tâm sự: “Người Tây Bắc để nhớ để thương cho tôi nhiều quá”. Có lẽ Vợ chồng A Phủ chính là món quà đặc biệt Tô Hoài gửi lại cho đồng bào vùng cao thay cho lời tạm biệt của mình. Trong một lần nói về Tô Hoài, Tế Hanh có lời chia sẻ: “Nếu có những người như Picasso sinh ra để vẽ, thì ở một mức nào đó, cũng có thể nói Tô Hoài sinh ra để viết”.
Quả thực, Tô Hoài đã cống hiến gần trọn đời mình cho nghiệp viết. Bao nhiêu vốn sống, bao nhiêu kinh nghiệm, một lần nữa Tô Hoài lại gửi vào thiên truyện về vùng cao. Đến với Vợ chồng A Phủ không chỉ là đến với một Tây Bắc thơ mộng trữ tình – mảnh đất vốn vẫn còn xa lạ với làng văn, mà còn là đến với con người nơi đây để hiểu thêm và đồng cảm thêm với số phận của họ, cũng là để để nâng niu thêm vẻ đẹp trong họ. Nhân vật chính của truyện – Mị – con dâu nhà thống lí Pá Tra – đã nói thay Tô Hoài những điều ông gửi gắm…
Ngay mở đầu truyện, Tô Hoài đã bắt đầu bằng cái nhịp trầm buồn tựa như nhịp vào truyện của những câu chuyện cổ tích xa xưa: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.”
Thế giới Tây Bắc hiện ra, xa xăm kì diệu, với chân dung một thiếu phụ buồn như một ẩn số. Thấp thoáng bóng dáng của cô Tấm bước vào trang truyện với bao cực lòng, của những người phụ nữ xưa đời đời lặng im chẳng cất lên tiếng nói. “Mị là ai ? Vì sao cô ấy buồn một cách câm lặng đến thế?”, người ta cứ băn khoăn và tự hỏi như thế. Cho đến khi tìm thấy câu trả lời ở những khúc đoạn sau…
Mị trước khi về nhà thống lí vốn là một cô gái xinh đẹp như bông hoa hàm tiếu của núi rừng Tây Bắc. Đời người con gái miền sơn cước ấy trong trẻo, tinh khôi, tâm hồn phong phú và ngập tràn khát vọng tự do. Mị cũng từng yêu và được yêu. “Trai trong làng đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”.
Từng có bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.Vốn tưởng những khát vọng tuổi trẻ sẽ cho Mị một cuộc đời sung sướng, nhưng món nợ truyền kiếp của gia đình đè lên vai đã vô tình dồn đẩy Mị vào bi kịch. “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Ở câu nói ấy, Mị không chỉ cho ta thấy lòng hiếu thảo của một đứa con thương cha, mà còn bộc lộ lòng tự trọng của một người có ý thức sâu sắc về quyền sống, quyền tự do. Nhưng đau xót thay, những hủ tục phong kiến của bọn chúa đất miền núi đã không cho Mị được sống như một con người. Bi kịch tìm đến kể từ cái đêm Mị bị A Sử đến cướp đi, bao nhiêu nghiệt ngã cũng từ đó…
Về làm dâu nhà thống lí, Mị không được sống đúng với tư cách là một người con dâu, mà sống như một con ở, một nô lệ, một công cụ lao động, bị áp chế bởi cường quyền, thần quyền và bạo ngược, bị chà đạp cả thể xác và tinh thần. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Từng có lúc Mị tìm đến lá ngón tự tử, nhưng vì thương cha, Mị cầm lòng và nhẫn nhục.
Thế rồi “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết, Mị không tưởng đến mình có thể ăn lá ngón mà tự tử được nữa”. Khi muốn chết nghĩa là còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thích sống. Còn khi đã không thiết chết, có nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng đã không còn. Bao nhiêu công việc lớn nhỏ của cái gia đình ấy, Mị quần quật làm trong cam chịu.
Triền miên công việc từ ngày này qua tháng khác cứ hiện ra và đè nặng lên đôi vai bé nhỏ: Từ giặt đay, xe đay, chẻ củi, bung ngô, thái cỏ ngựa, hay đi cõng nước dưới khe suối…, chẳng còn việc gì không đến tay Đến nỗi mà, “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị nghĩ mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. Kiếp con người được vật hóa trong ý thức thì còn gì đau đớn hơn ? Và còn xót xa nữa, khi mà đời sống tinh thần Mị cũng dần bị cầm tù và khóa chặt.
Mị sống trong căn buồng u tối chỉ có một lỗ vuông cửa sổ bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Một thứ ngục thất tinh thần, nó không giam hãm thân xác Mị, nhưng nó cầm cố tuổi xuân và sức sống của Mị, nó cách li Mị với cuộc đời. Mị dần trở nên câm lặng, vô cảm, mất dần ý thức về quyền sống. Đã không còn nghe thấy tiếng nói, tiếng hát, tiếng tâm hồn thổi lên xốn xang mạnh mẽ. Mị bây giờ giống như “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, chẳng biết đâu là ánh sáng của niềm vui và sự tự do nữa. Có những lúc, ta tưởng như Mị đã chết mòn về ý thức…
Nhưng không, ngòi bút của Tô Hoài vẫn đủ niềm tin, trái tim Tô Hoài vẫn đủ yêu thương, nhãn quan Tô Hoài vẫn đủ tinh nhạy để nhìn thấy ở cái “bề sâu, bề sau và bề xa” của hiện thực tăm tối kia là bao vẻ đẹp của một người con gái vẫn luôn ẩn tàng sức sống. Qủa thực, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị là điều khó tưởng, khó thấy, nhưng lại thật dễ hiểu, dễ cảm. Đó là vào cái đêm tình mùa xuân, khi Hồng Ngài tựa như một bức tranh rực lên sức sống trong cả màu sắc và âm thanh.
Màu “vàng ửng” của cỏ gianh trong cái rét thổi dữ dội, màu sặc sỡ của “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên các mỏm đá xòe”, tiếng rộn ràng xôn xao của những đứa trẻ đánh pao, đánh quay, tiếng thiết tha bổi hổi của tiếng sáo gọi bạn tình. Lạc vào miền không gian ấm cúng và náo nhiệt ấy, ta cũng phần nào cảm được cái hồn Tây Bắc , huống chi là Mị – một người con của vùng cao, thì sao có thể để lòng ngủ yên giữa lúc Hồng Ngài náo nhiệt như thế.
Ngày Tết năm ấy, Mị cũng uống rượu, “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Thứ hơi men chếnh choáng đê mê đã kéo Mị ra khỏi thức tại, đưa Mị trở về quá khứ, vừa quên đi tủi cực phận mình, vừa nhớ về hạnh phúc xa xưa.
Nhưng để ý thức hồi sinh mãnh liệt nhất, thì có lẽ tiếng sáo mới là tác nhân có những ảnh hưởng sâu sắc. Tiếng sáo xuất hiện bốn lần trong truyện, cứ ngân lên theo từng giai âm của tâm hồn. Bắt đầu là tiếng sáo từ xa vọng lại, “thiết tha bổi hổi”, khiến Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát của người đang thổi:
Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Ca từ mộc mạc, giản dị, hàm chứa lẽ sống phóng khoáng tự do của người đang thổi sáo. Tiếng sáo ấy đã dùi tâm hồn Mị vượt qua cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay như vượt qua cái hàng rào trắng của thực tại để bay bổng trên các triền núi cao. Tiếng sáo gần hơn, khi Mị nghe “văng vẳng” âm thanh gọi bạn đầu làng của nó, cũng là lúc Mị được sống nhiều nhất, thật nhất với lòng mình.
Như giáo sư Đỗ Kim Hồi từng nhận định: “Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã bị chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi, nó sẽ cháy lên từ dưới lớp tro buồn”.
Lòng phơi phới, Mị dần ý thức được về quyền sống, quyền hạnh phúc của mình: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có chồng rồi vẫn đi chơi, huống chi A Sử với Mị, ở với nhau mà không có lòng với nhau”. Có một sự vượt ngục ở đây chăng? Hay là sức sống kia vẫn luôn tiềm tàng nay mới được đánh thức?
Sự sống dậy trong tâm tâm hồn đã thúc bước Mị hành động, một cách vô thức có ý thức: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn”. Tâm trí Mị đang sống với không khí ngoài kia, “Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách”. Những hành động của một con người đã và đang chết dần về ý thức minh chứng cho một trái tim chưa bao giờ hết khát khao. Nó chỉ tạm ngủ yên trong một xã hội nhơ nhuốc chứ chưa bao giờ ngừng đập trong một lồng ngực căng tràn nhựa sống.
Ngay cả khi bị kéo về thực tại với dây trói cột chặt, Mị vẫn thấy hơi rượu nồng nàn, tiếng sáo văng vẳng, sức sống tràn ra ngoài dây trói và xốn xang bao khát vọng. Chỉ là thực tại quá nghiệt ngã đã không cho người con gái ấy được thỏa lòng, nhưng chỉ thế thôi cũng đủ để ta thấy bao khát vọng ẩn tàng, và rồi nó sẽ còn rực cháy…
Đúng thế! Cơn mơ giải thoát ở đêm tình mùa xuân tưởng như đã tiêu tan đến tê dại, nhưng không, Tô Hoài lại một lần nữa nói cho ta rằng sức sống con người là bất diệt. Đó là vào cái đêm đông năm ấy, Mị cởi trói cho A Phủ, cũng là cởi trói cho chính mình. Những diễn biến tâm lí tưởng khó lường mà thật tự nhiên. Vào cái đêm đau khổ nhất trong cuộc đời A Phủ, sau bao ngày bị trói giữa trời, khuôn mặt A Phủ xám xịt, đôi mắt quầng thâm, nỗi lòng tuyệt vọng.
Thế mà trước cảnh tượng ấy, Mị vẫn dửng dưng, lãnh đạm đến vô cảm, vẫn thản nhiên hơ tay sưởi lửa, thâm chí A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Nhưng, chỉ bằng một chi tiết thôi, cái chi tiết mà Tô Hoài gửi vào đó bao dụng ý, đã cứu sống tất cả. “Một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” trên gương mặt A Phủ. Nó giống như giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước, nó đưa Mị ra khỏi vực quên để trở về cõi nhớ – nhớ mình cũng từng khổ như thế, nhiều người cũng từng khổ như thế – một sự khổ đau giày nát tâm hồn và tê liệt thể xác mà không sao thoát nổi.
Từ thương mình, Mị biết thương người, tình thương lớn lên thôi thúc Mị hành động, ngay cả khi biết mình có thể bị trói thay vào đó, Mị cũng chẳng thấy sợ. Mị cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ, cũng là cởi trói cho chính mình. Hai con người lao ra từ bóng tối và chạy thẳng về ánh sáng. Ý thức tự đấu tranh để tiến dần về Cách Mạng phải chăng chính là vẻ đẹp mới mẻ mà Tô Hoài đặt niềm tin vào họ?
Sinh thời, Tô Hoài từng tâm niệm: “Mỗi chữ phải như một hạt ngọc buông xuống nhưng trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhất mà mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”. Ông đã xây dựng thành công nhân vật Mị ngay từ nghệ thuật thể hiện.
Chân dung ngoại hiện đến những bước ngoặt tâm lí đã đủ thấy Tô Hoài từng sống sâu sắc với nơi đây biết bao. Mị chính là một mảnh Tây Bắc sống mãi trong làng văn, sống mãi trong đời văn của người nghệ sĩ mà ta vẫn gọi là “pho từ điển sống” này.
Xem thêm: Phân tích nhân vật chí phèo trong tác phẩm cùng tên.
Trên đây là những bài văn phân tích nhân vật Mị hay nhất được chúng tôi tuyển chọn, chắc chắn sẽ là gợi ý tốt nhất cho các bạn trước khi bắt tay vào bài viết của cính mình.